Thứ tư - 14 Tháng 9
Viết bởi vietduc
Mặc dù đã có nhiều bước tiến quan trọng trong chẩn đoán, theo dõi và điều trị; suy hô hấp cấp (SHHC) vẫn là nguyên nhân chủ yếu trực tiếp gây tử vong ở các đơn vị chăm sóc tích cực (ICU). Rất khó đưa ra một con số thống nhất về tỷ lệ suy hô hấp cấp, do còn tồn tại nhiều quan niệm, định nghĩa và phân loại khác nhau, nhưng thường chiếm 10-15% các trường hợp nhập ICU và là biến chứng của 50-75% bệnh nhân nằm ICU trên 7 ngày. Tỷ lệ tử vong do suy hô hấp cấp trong khoảng 6-40%. Khoảng cách dao động rộng này có liên quan đến tính không đồng nhất trong các tập hợp thống kê nghiên cứu của các tác giả khác nhau. Một số nguyên nhân suy hô hấp cấp có thể điều trị dễ dàng, nếu được chẩn đoán và điều trị sớm.
Năm 1854 tác giả Wintrich lần đầu tiên đã mô tả bệnh cảnh lâm sàng của suy hô hấp.
Trước khi có kỹ thuật phân tích khí máu động mạch, vào những năm 1950, suy hô hấp được chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng. Khi đó, quá liều barbiturate và bệnh bại liệt là các nguyên nhân phổ biến của suy hô hấp cấp.
Bắt đàu từ những năm 1960, có nhiều thay đổi trong hiểu biết về trao đổi và cung cấp oxy, đồng thớị sự phát triển nhanh của các kỹ thuật Hồi sức hiện đại như: xét nghiệm phân tích khí máu (bắt đầu trở thành thường quy), kỹ thuật thông khí cơ học với áp lực dương điều khiển bằng mạch vi xử lý (được hoàn thiện), kỹ thuật theo dõi liên tục carbonic trong khí thở ra, đo trực tiếp áp lực động mạch, theo rõi độ bão hoà oxy ở đầu chi liên tục đã trở thành tiêu chuẩn theo dõi đồng nhất trong tất cả các ICU, phòng mổ, phòng thủ thuụât, phòng cấp cứu, và đặc biệt sự ra đời của các đơn vị hồi sức hiện đại (ICU)... đã thực sự tăng cường khả năng điều trị cho các bệnh nhân SHHC nặng.
Bốn thập kỷ qua chúng ta đã chứng kiến sự tiến nhanh của chuyên nghành hồi sức hô hấp. Những tiến bộ này đánh dấu một kỷ nguyên mới, cho phép chẩn đoán và hỗ trợ điều trị có hiệu quả những quá trình bệnh lý liên quan với suy hô hấp cấp như sốc, nhiễm trùng, bỏng, chấn thương. Các tiến bộ này đã cải thiện khả năng sống sót ở các bệnh nhân suy hộ hấp. Tuy nhiên, có một sự thật là ở không ít các trường hợp chúng ta hầu như chỉ làm chậm khả năng tử vong. Điều trị tấn công suy hô hấp có thể đẩy bệnh nhân đến nhiều biến chứng như chấn thương phổi do áp lực, nhiễm trùng huyết, suy thận cấp, viêm phổi bệnh viện, nhiễm trùng cơ hội, suy đa tạng... cho nên, dù tình trạng giảm oxy máu có thể được điều trị nhưng các biến chứng vẫn thúc đẩy tử vong do các căn nguyên thứ phát.
Ngoài ra, sự phức tạp của các kỹ thuật hồi sức cũng làm tăng nguy cơ các biến chứng do thầy thuốc, dẫn đến sụt giảm các ưu điểm của công nghệ điều trị hồi sức hiện đại.