Bạn đang truy cập:
Diệt mầm bệnh ở tim bằng ăn uống
Một chế độ ăn hợp lý và cân đối chẳng những có tác động trực tiếp làm giảm các thói quen ăn uống phản khoa học mà còn gián tiếp giúp kiểm soát cân nặng, phòng tránh béo phì, rối loạn mỡ máu và tăng huyết áp. Từ đó làm giảm các yếu tố bất lợi cho trái tim.
Bệnh tim mạch là một nhóm bệnh lý liên quan đến tim và hệ thống mạch máu trong cơ thể. Thường gặp ở nước ta là các bệnh lý như van tim, mạch vành, thiếu máu cơ tim, tai biến mạch máu não… Có nhiều yếu tố nguy cơ đã được xác định, đa phần liên quan đến lối sống (hút thuốc lá, ít vận động), chế độ ăn (ăn nhiều chất béo có nguồn gốc động vật, uống rượu bia…) cũng như một số bệnh lý (thừa cân và béo phì, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, tiểu đường…). Nhiều nghiên cứu cho thấy, thay đổi số lượng cũng như thành phần chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn đều có ảnh hưởng đến tăng hay giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Chế độ ăn hợp lý và cân đối giúp giảm các yếu tố bất lợi cho trái tim
Nguồn: timeinc.net
Nguồn: timeinc.net
Tổng năng lượng: mức năng lượng trung bình cần ăn vào của một người bình thường khoảng 25 – 35kCal/kg/ngày, tuỳ mức độ vận động. Đối với người bị béo phì hoặc có các bệnh lý mạn tính khác thì nhu cầu năng lượng thay đổi tuỳ trường hợp.
Chất béo: theo khuyến nghị cho người Việt Nam của bộ Y tế, chất béo trong khẩu phần nên từ 15 – 20%. Chế độ ăn nhiều axit béo no (có nhiều trong thịt mỡ, bơ động vật, nước luộc thịt) hay axit béo thể trans (có nhiều trong thịt mỡ, thức ăn nhanh) gây tăng lượng cholesterol toàn phần, cholesterol xấu (LDL-cholesterol) và giảm cholesterol có lợi (HDL-cholesterol) dẫn đến tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Theo một khuyến cáo dinh dưỡng gần đây, lượng axit béo no trong khẩu phần nên giảm còn dưới 10% tổng năng lượng; đối với người có nguy cơ bệnh tim mạch thì nên giảm còn dưới 7% và axit béo trans còn dưới 1%. Trong khi đó, axit béo không no (một nối đôi hoặc nhiều nối đôi như omega-3 hay omega-6) lại giúp bảo vệ trái tim. Chế độ ăn nhiều acid béo không no (thay thế các acid béo no) sẽ làm giảm cholesterol toàn phần và cholesterol xấu. Omega-3 có nhiều trong cá và hải sản. Mỗi tuần nên có từ 3 – 5 lần ăn cá, hải sản thay cho thịt.
Ngoài ra, các sản phẩm chất béo có nguồn gốc thực vật (như dầu ăn) chứa nhiều axit béo không no nên cần sử dụng dầu thực vật thay cho mỡ động vật. Một thành phần chất béo trong thực phẩm cũng cần quan tâm đó là cholesterol. Lượng cholesterol có trong khẩu phần có ảnh hưởng nhiều đến lượng cholesterol toàn phần và LDL-cholesterol trong máu. Cholesterol có nhiều trong trứng, sữa động vật, thịt gia cầm (đặc biệt có màu đỏ) và nội tạng động vật (não, gan, tim…). Lượng cholesterol trong chế độ ăn hàng ngày nên dưới 300mg ở người bình thường và dưới 200mg ở người bị rối loạn mỡ máu, có nguy cơ bệnh tim mạch.
Chất xơ, tinh bột: tinh bột là nguồn cung cấp năng lượng chính nhưng ăn quá nhiều tinh bột có thể gây nên rối loạn mỡ trong máu (tăng triglyceride). Trong cơ cấu khẩu phần nên có khoảng 55 – 65% năng lượng từ tinh bột. Các loại tinh bột có chỉ số đường huyết thấp như gạo lức, ngũ cốc nguyên hạt, sữa chua, sữa tách béo… giúp giảm cholesterol toàn phần và LDL-cholesterol ở những bệnh nhân bị đái tháo đường. Thực phẩm có nhiều chất xơ, đặc biệt chất xơ hoà tan, cũng thường có chỉ số đường huyết thấp (đậu nành, bông cải, càrốt, khoai lang, khoai tây…). Ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh vai trò của chất xơ trong phòng ngừa bệnh tim mạch. Nhu cầu khuyến nghị về chất xơ cho mọi người trong khẩu phần ăn hàng ngày là 20 – 25g. Rau quả là nguồn cung cấp chất xơ quan trọng, lượng chất xơ trong rau chiếm khoảng 0,3 – 3,5%, tuỳ loại.
Chất đạm: ngoài cung cấp năng lượng, đây còn là chất nền trong tái tạo các mô, tế bào, kích thích tố cho cơ thể. Lượng đạm trong khẩu phần ăn nên chiếm 12 – 18% tổng năng lượng và bao gồm cả đạm động vật (thịt, cá, trứng…), đạm thực vật (họ đậu, gạo, khoai…). Đạm thực vật, đặc biệt từ nguồn họ đậu (đậu nành) có hiệu quả làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Theo khuyến cáo của cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA), nên ăn 25g chất đạm đậu nành/ngày để giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
Muối khoáng: giảm lượng muối ăn vào sẽ giúp giảm huyết áp cũng như giảm tử vong do đột quỵ hay nhồi máu cơ tim. Lượng muối ăn trung bình hàng ngày nên dưới 5g (khoảng một muỗng càphê). Nên tập thói quen không thêm muối hay dùng các loại nước chấm thêm khi ăn.
Chất đạm: ngoài cung cấp năng lượng, đây còn là chất nền trong tái tạo các mô, tế bào, kích thích tố cho cơ thể. Lượng đạm trong khẩu phần ăn nên chiếm 12 – 18% tổng năng lượng và bao gồm cả đạm động vật (thịt, cá, trứng…), đạm thực vật (họ đậu, gạo, khoai…). Đạm thực vật, đặc biệt từ nguồn họ đậu (đậu nành) có hiệu quả làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Theo khuyến cáo của cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA), nên ăn 25g chất đạm đậu nành/ngày để giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
Muối khoáng: giảm lượng muối ăn vào sẽ giúp giảm huyết áp cũng như giảm tử vong do đột quỵ hay nhồi máu cơ tim. Lượng muối ăn trung bình hàng ngày nên dưới 5g (khoảng một muỗng càphê). Nên tập thói quen không thêm muối hay dùng các loại nước chấm thêm khi ăn.
TS.BS Lê Nguyễn Trung Đức Sơn
Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM
Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM
Ý kiến bạn đọc (0)
Viết Ý kiến bạn đọc